Trong thơ văn thời Lý- è, thấy xuất hiện hơi dày đặc hình ảnh cây mai và tuồng như mỗi khi hoa mai hiện diện đều khiến những áng thơ của thi nhân xưa trở thành những câu chữ xuất thần. Ấn tượng nhất là những bài thơ Tảo mai của Phật hoàng è Nhân Tông và “Cáo tật thị chúng” của Thiền sư Mãn Giác thời Lý với câu thơ bất hủ “Cứ tưởng xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua, sân trước một nhành mai”.
Mai vàng yên Tử- loài hoa Qúy độc đáo ngày Tết
Bình luận cái hay, cái đẹp trong những áng thơ kiệt tác này, sẽ là thừa giả dụ sa đà vào sự săm soi, nghi vấn rằng đấy là hoa mai vàng, mai trắng, hay mai hồng? Bởi hoa mai ở đây chỉ mang tính ước lệ hàm chỉ mùa xuân - sự sống - hạnh phúc, và mai vàng hay mai trắng đều mang ý nghĩa thoát tục như nhau, cũng như bất cứ loài hoa thanh khiết và cao thượng nào khác. Nhưng bài viết này không nhằm bình luận thơ, mà muốn đi sắm nguồn gốc của loài hoa mà người xưa phải “cúi đầu bái lạy”.
Mai vàng hay mai trắng?
Báo cần lao số ra ngày 26-1-2011 có bài “Trước nhà phải trồng cây mai vàng” của tác nhái Minh Tự, viết: “…Yêu và tôn thờ hoàng mai như thế, Thế nên người Huế đã mắc phải một nhầm lẫn rất quan trọng.
Họ cứ khẳng định như chân lý rằng cây hoa mai bất hủ của Mãn Giác thiền sư trong bài kệ nức danh “Cáo tật thị chúng” chính là hoàng mai. Thậm chí các thi sĩ, các nhà giáo và nhắc cả các nhà sư xứ Huế vẫn bình luận rất vô tư, rằng “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai” đó là mai vàng. Họ đã mặc định “mai cốt cách, tuyết tinh thần” trong Kiều của Tố Như chính là hoàng mai. Họ đã khẳng định cái loài hoa mà Chu Thần Cao Bá Quát suốt cả đời chỉ cúi đầu bái lạy độc nhất vô nhị, “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”, đấy là mai vàng.
=>Xem thêm: Hướng dẫn cách ươm hạt mai vàng đúng kỹ thuật
Cho đến một ngày đầu xuân 2009, nhà nghiên cứu Hải Trung đã lên tiếng đính chính cho hoa mai, thì người Huế mới biết rằng trong khoảng bấy lâu mình đã “lầm to”. Theo tác giả Hải Trung, loài hoa mai mà Mãn Giác thiền sư, Cao Bá Quát, Nguyễn Du, và không ít tác phẩm trong văn học trung đại Việt Nam và cả trong con đường thi vẫn nói đến, chính là loài mai trắng, người Bắc thường gọi là hoa mơ, người Huế gọi là bạch mai, tuyết mai hay hàn mai.
Loài hoa thuộc họ Mơ, tên kỹ thuật là Prunus mume S.et Z, hoa nhỏ màu trắng như tuyết, quả mai chính là quả mơ mà người ta vẫn thường dùng để chế biến ô mai. Khác hẳn với hoa mai vàng, có tên công nghệ là Ochna harmandii Lee thuộc họ hoàng mai, có gốc tích ở phương Nam.
Theo nhà dược học Đỗ Tất Lợi - trong bài viết “Cây mơ, cây mai dưới con mắt người làm công việc khoa học” in trên báo quần chúng. # Ngày 22-2-1983 thì: “Người Việt mới biết đến cây mai vàng khoảng 300 năm trở lại đây.
Vào thế kỷ thứ XI, dưới thời nhà Lý, thì Mãn Giác thiền sư đã biết tới hoa hoàng mai đâu mà bảo “nhất chi mai” đó là một cành mai nở vàng trước sân? Đến giờ, hoa mai vàng vẫn chẳng thể sống và ra hoa được trong khí hậu lạnh của miền Bắc, vậy thì loài hoa kiên cường nở trong giá buốt khiến cho người quân tử phải “đạp tuyết” để “tầm mai” đấy cứng cáp không hề là mai vàng.
Wikipedia khi nói tới mục từ “Mai vàng” cũng cho biết: “Việc miền Bắc chơi đào, trong miền Nam chơi mai trong dịp Tết được giải thích là sau lúc mở mang bờ cõi về phương Nam vốn có khí hậu nóng hơn không phù hợp với việc trồng đào, mỗi lúc Tết đến, những người đi mở đất nhớ tới cành đào ngoài Bắc nhưng không thể đem tới đã chọn mai (một cây hoa rất phổ quát ở trong Nam, đẹp, phổ quát hoa lại nở đúng mùa Tết) để thay thế.
Tác giả Minh tự tận trong bài “Trước nhà phải trồng cây mai vàng” thêm một lần nữa khẳng định Cây mai trong thơ văn xưa chính là loài mai trắng để rồi: “Dẫu biết rằng loài hoa mai mà người xưa gọi là tượng trưng của người quân tử với cốt cách kiên nhẫn trước lạnh giá của đất trời và âm thầm lưu giữ tinh hoa đất trời đó là loài mai trắng ở miền Bắc, nhưng các giáo đồ của hoàng mai ở xứ Huế vẫn cố định rằng mai vàng mới chính là loài hoa cao quý, khiến cho kẻ sĩ quật cường như Cao Bá Quát cũng phải cúi lạy."
"Tôi đã gặp phổ quát người Huế trồng mai, chơi mai và hiểu biết về hoa mai để thử đính chính với họ về sự nhầm lẫn này, và nhận lại nhiều cái lắc đầu. Người trồng mai thì bảo hoa mai đương nhiên là cái giống mai vàng này, các thứ khác đơn thuần là ăn theo mai mà thôi. Người nghiên cứu về hoa mai thì bảo có tới 200 loài hoa mai, nhưng đại diện cho họ nhà mai thì phải là hoàng mai. Người chơi mai thì bảo cứ nhìn cái dáng mềm mại mà vươn cao của hoàng mai, thân cây với những lớp đồi mồi tuyết sương, kiên nhẫn qua nắng mưa để rồi nở ra cho đời những bông hoa vàng tinh anh, đó mới là cốt cách của người quân tử! Người Huế tôi thủy chung tới mức thủ cựu, nhưng đáng yêu cũng chính là chỗ đó!” - Nhà báo Minh Tự viết.
Thực ra, không những những bồ hoa xứ Huế mặc nhiên tin rằng cây mai mà người xưa bái lạy chính là hoàng mai, mà ngay cả phổ quát học kém chất lượng, nhà nghiên cứu Phật giáo, văn chương ở miền Nam cũng điềm nhiên hình dung hoa mai trong thơ văn Lý nai lưng là cây mai vàng.
HT.Thích Giác Toàn trong bài “Những đóa mai vàng đẹp mãi nghìn năm” cũng viết: “Tóm lại, như chúng ta đã biết, cánh hoa vàng (hoàng hoa) của Thiền sư Thiền Lão, cành mai vàng của Thiền sư Mãn Giác đầu, giữa đời Lý và đóa cúc vàng của Thiền sư Huyền quang quẻ sắp cuối đời Trần… cả 3 đóa hoa vàng cách nhau trên dưới 300 năm. Vậy mà lúc đọc lại, ta tưởng dường như 3 con người, 3 vị Thiền sư Thiền Lão-Mãn Giác-Huyền quang đãng và 3 đóa hoa vàng đơn thuần là một - như mới đâu đây, mới hôm nào… rồi chợt giật thột. Ồ! Đây rồi - đóa hoa vàng của chính lòng ta “tâm thức sống của chính mình,” của mỗi người chúng ta. Ôi! Những đóa hoa vàng tuyệt bích thiên thu”.
=>Xem thêm: Tất tần tật các bước phân bón cho mai vàng theo từng giai đoạn
Mai vàng đã phổ thông ở miền Bắc vào thời Lý - è cổ
dĩ nhiên trong khoảng trước đến nay, mọi người miền Bắc đều nghĩ rằng cây mai vàng không thể hiện diện ở Bắc Bộ từ thời xa xưa, vì đây là loài cây xuất xứ ở Nam. Miền Bắc chỉ có cây mai trắng, nhưng ít người mua để chơi Tết, mà ngày Tết thường chỉ chơi hoa đào. Nhưng trong khoảng năm 2007, lúc rừng Đại lão mai vàng ở im Tử được phát hiện và công bố khiến tất thảy đều ngỡ ngàng.
Chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã đưa rừng mai vàng vào quy hoạch di sản quan yếu phải kiểm soát an ninh nghiêm nhặt, song song các nhà kỹ thuật nước ta đã nghiên cứu rừng mai quý thi thoảng này. Khi điều tra kĩ xuất xứ cây mai vàng ở non thiêng đại nghìn yên ổn Tử, các nhà kỹ thuật của Viện Nghiên cứu Rau quả và Trường Đại học Nông nghiệp l cũng đều nhận thấy giống mai vàng này đã có cách đây khoảng 800 năm, được phân bố tản mác khắp vùng rừng yên ổn Tử, nhưng tập hợp ở 3 khu chính; ấy là: Khe núi dọc trong khoảng chùa Hoa yên ổn xuống, khu rừng thuộc phường Vàng Danh (TX Uông Bí) và khu rừng thuộc dãy núi xã Tràng Lương, Bình Khê (Đông Triều).
Tại đây, người ta có thể bắt gặp những cây mai cao đến 15 mét, tuyến đường kính thân 60-70cm và có rất nhiều cành. Theo những nghiên cứu mới đây của Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam, thì cây mai vàng yên ổn Tử và cây mai vàng miền Nam đều thuộc cùng một loài (tên khoa học là Ochna integerrima), đây là loại mai có 5 cánh, lộc màu xanh. Cánh hoa có màu vàng tươi rất sáng và có mùi thơm nhẹ đặc thù rất dễ chịu. Trên một cành có cực nhiều hoa. Kích thước hoa ko lớn, các con phố kính khoảng 2 - 3cm. Sự dị biệt lớn nhất mà người ưa chuộng mai vàng yên Tử để ý là khả năng sinh sống và nở hoa trong điều kiện khí hậu có nhiệt độ lạnh của miền Bắc.
Chính điều này đã tạo nên những đặc điểm về hình thái, hương thơm và thời điểm nở hoa khác hẳn so với các giống hoa mai vàng ở phương Nam. Truy hỏi trong sử liệu, những Dự án nghiên cứu công nghệ, lịch sử, văn hóa về di tích danh thắng yên Tử có không ít, song, hầu như không có tài liệu chính thức nào nói về loài mai vàng rất quý tại im Tử, mọc thành rừng. Chỉ nghe dân gian tục truyền rằng, lúc lên núi im Tử tu hành, Phật hoàng è Nhân Tông đã phát động các giáo đồ Phật tử trồng cây mai vàng. Sau phổ thông năm được bàn tay các Phật tử chăm nom, cộng với sự ưu ái của tự nhiên, những cây mai nhỏ bé đã biến thành rừng mai rộng to.
Một điều đặc trưng, đó là thủ đô Hà Nội ngày nay có quận Hoàng Mai, thế nhưng ít người liên tưởng cái tên địa danh này với loài hoa mai vàng. Rộng rãi tài liệu lịch sử ghi lại, Hoàng Mai xưa vốn là thái ấp của Thượng tướng quân trần Khát Chân (? - 1399), Ông có phổ thông công lao trong trận đấu đấu chống các đợt xâm lược của quân Chiêm vì vậy Thăng Long cuối thời trằn. Năm 1390, ông giết mổ được vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga, trong khoảng đây, quân Chiêm không còn đánh ra Thăng Long nữa.
Sau chiến công này, nai lưng Khát Chân được thăng chức Thượng tướng quân, được ban cho thôn Cổ Mai làm thái ấp. Thái ấp của trần Khát Chân nằm trên vùng lối vào xung yếu trấn giữ phía Nam Thăng Long (điều này cũng dễ thấy và dễ hiểu ở các thái ấp của các vị hoàng phái, danh tướng nhà Trần). Trần Khát Chân rất yêu thích cây mai, Vậy nên ông cho trồng cây mai thành vườn rừng rộng lớn trên vùng đầm hồ nơi đây dài cả chục dặm. Sử sách cũng ghi lại: Hàng năm, cứ vào đầu tháng Giêng, Thượng tướng trần Khát Chân vẫn mở tiệc Đại Mai đều đặn tại Trại Mai của mình, mời thánh thượng Nghệ Tông cùng các đại thần triều đình đến tham gia và thưởng lãm hoa mai.